Người Mnông – Nghethuat.info https://nghethuat.info Trang thông tin nghệ thuật Việt Nam Wed, 03 Sep 2025 12:23:02 +0000 vi hourly 1 https://wordpress.org/?v=6.7.4 https://cloud.linh.pro/nghethuat/2025/08/nghethuat-icon.svg Người Mnông – Nghethuat.info https://nghethuat.info 32 32 Nghề gốm đen truyền thống của người M’nông Rlăm ở Đắk Lắk là Di sản văn hóa phi vật thể quốc gia https://nghethuat.info/nghe-gom-den-truyen-thong-cua-nguoi-mnong-rlam-o-dak-lak-la-di-san-van-hoa-phi-vat-the-quoc-gia/ Wed, 03 Sep 2025 12:22:51 +0000 https://nghethuat.info/nghe-gom-den-truyen-thong-cua-nguoi-mnong-rlam-o-dak-lak-la-di-san-van-hoa-phi-vat-the-quoc-gia/

Nghề làm gốm truyền thống của người M’nông Rlăm tại buôn Dơng Bắk, xã Liên Sơn, huyện Lắk, tỉnh Đắk Lắk, đã tồn tại bền bỉ qua nhiều thế hệ với kỹ thuật độc đáo như ‘nuôi đất’, ‘trích đất’ và nung lộ thiên. Gốm của người M’nông Rlăm được biết đến với đặc trưng không sử dụng bàn xoay, không lò nung, không khuôn đúc, tạo nên những sản phẩm độc đáo và mang đậm bản sắc văn hóa.

Nghề gốm truyền thống của người M’nông Rlăm tại buôn Dơng Bắk đã chính thức được Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch công nhận là Di sản văn hóa phi vật thể quốc gia vào cuối năm 2024. Ảnh: Tiêu Dao
Nghề gốm truyền thống của người M’nông Rlăm tại buôn Dơng Bắk đã chính thức được Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch công nhận là Di sản văn hóa phi vật thể quốc gia vào cuối năm 2024. Ảnh: Tiêu Dao

Quá trình làm gốm bắt đầu từ việc ‘nuôi đất’, tức là ủ đất sét lấy từ bờ sông Krông Ana để giữ ẩm và bảo tồn chất đất. Sau đó, người thợ sẽ ‘trích đất’ – lấy một lượng đất vừa đủ để tạo nên một sản phẩm, được xem như một nghi thức tâm linh. Gốm M’nông Rlăm được tạo dáng hoàn toàn bằng tay, không sử dụng bàn xoay. Người thợ di chuyển xung quanh sản phẩm trong quá trình nặn, tương đồng với cách làm gốm của người Chăm. Sản phẩm sau khi tạo hình được đánh bóng bằng đá, khắc họa tiết bằng que tre, sau đó phơi khô tự nhiên rồi nung trong lửa khoảng 30 phút với nhiên liệu vỏ trấu và mùn cưa.

Lớp khói trấu bám vào bề mặt gốm tạo nên sắc đen bóng đặc trưng – đây là điểm khác biệt nổi bật của gốm M’nông Rlăm so với nhiều dòng gốm khác. Ảnh: Tiêu Dao
Lớp khói trấu bám vào bề mặt gốm tạo nên sắc đen bóng đặc trưng – đây là điểm khác biệt nổi bật của gốm M’nông Rlăm so với nhiều dòng gốm khác. Ảnh: Tiêu Dao

Gốm truyền thống của người M’nông Rlăm đã được Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch công nhận là Di sản văn hóa phi vật thể quốc gia vào cuối năm 2024. Sự công nhận này đánh dấu bước chuyển quan trọng trong hành trình gìn giữ và phục hồi một làng nghề truyền thống đặc sắc của Tây Nguyên. Tuy nhiên, việc gìn giữ nghề gốm truyền thống của người M’nông Rlăm đang đối mặt với nhiều thách thức, trong đó có sự mai một về nhân lực, nguyên liệu khan hiếm, và khó khăn trong tiêu thụ sản phẩm.

Để làm gốm, người M’nông Rlăm phải biết cách “nuôi đất” và “trích đất” – những khái niệm gắn liền với cả kỹ thuật và tín ngưỡng. Ảnh: Tiêu Dao
Để làm gốm, người M’nông Rlăm phải biết cách “nuôi đất” và “trích đất” – những khái niệm gắn liền với cả kỹ thuật và tín ngưỡng. Ảnh: Tiêu Dao

Chính quyền địa phương đã triển khai một số đề án bảo tồn và phát triển làng nghề gốm truyền thống, đặt hàng sản phẩm gốm từ nghệ nhân địa phương, tổ chức các lớp truyền dạy nghề, và giới thiệu sản phẩm đến các đơn vị lữ hành. Gốm thủ công của buôn Dơng Bắk đã được công nhận là sản phẩm OCOP đạt 3 sao cấp tỉnh, mở ra cơ hội tiếp cận thị trường rộng hơn. Du lịch cộng đồng đã mang đến hy vọng mới cho nghề làm gốm của người M’nông tại buôn Dơng Bắk. Các tour du lịch trải nghiệm đã về đến Yang Tao, tạo điều kiện cho nghệ nhân địa phương trình diễn kỹ thuật làm gốm cổ.

Các vật dụng truyền thống thường gặp gồm bình, ché, bát, chén, lu đựng nước... đều có độ bền cao, khả năng chịu nhiệt tốt và không tráng men. Ảnh: Tiêu Dao
Các vật dụng truyền thống thường gặp gồm bình, ché, bát, chén, lu đựng nước… đều có độ bền cao, khả năng chịu nhiệt tốt và không tráng men. Ảnh: Tiêu Dao

Du khách khi đến thăm làng gốm không chỉ được tìm hiểu quy trình thủ công, mà còn có thể trực tiếp tham gia tạo hình, trang trí sản phẩm và mang về làm kỷ niệm. Những hoạt động này bước đầu giúp gốm Yang Tao có thêm cơ hội được hồi sinh, đồng thời trở thành điểm nhấn văn hóa trong phát triển du lịch bền vững tại khu vực Tây Nguyên. Với những nỗ lực bảo tồn và phát triển, hy vọng rằng nghề làm gốm truyền thống của người M’nông Rlăm sẽ tiếp tục tồn tại và phát triển trong tương lai.

Gốm truyền thống của người M’nông Rlăm không sử dụng bàn xoay mà được tạo dáng hoàn toàn bằng tay. Ảnh: Tiêu Dao
Gốm truyền thống của người M’nông Rlăm không sử dụng bàn xoay mà được tạo dáng hoàn toàn bằng tay. Ảnh: Tiêu Dao
]]>
Người Mnông ở Đắk Lắk hiến đất làm đường ven hồ Lắk để phát triển du lịch https://nghethuat.info/nguoi-mnong-o-dak-lak-hien-dat-lam-duong-ven-ho-lak-de-phat-trien-du-lich/ Thu, 07 Aug 2025 02:11:36 +0000 https://nghethuat.info/nguoi-mnong-o-dak-lak-hien-dat-lam-duong-ven-ho-lak-de-phat-trien-du-lich/

Ở tỉnh Đắk Lắk, một tỉnh thuộc vùng Tây Nguyên của Việt Nam, nhiều câu chuyện đẹp về việc hiến đất làm đường và hy sinh quyền lợi cá nhân vì lợi ích chung đã được ghi nhận. Đây là biểu hiện của sự đoàn kết và tinh thần vì lợi ích chung của người dân địa phương, đặc biệt là đồng bào dân tộc Mnông tại xã Liên Sơn, huyện Lắk.

Những “cột mốc sống” miền biên viễn
Những “cột mốc sống” miền biên viễn

Ông Y Khim The, một cư dân của buôn Cuôr Tak, xã Liên Sơn, là một trong những người tiên phong trong việc hiến đất để mở đường. Gia đình ông đã tự nguyện hiến hơn một sào đất canh tác lúa của mình để thực hiện dự án đường ven hồ Lắk. “Con đường này không chỉ giúp cho việc đi lại của người dân trong buôn trở nên dễ dàng hơn mà còn thuận tiện cho việc vận chuyển nông sản. Chúng tôi mong muốn có một con đường đẹp và thuận tiện để cải thiện cuộc sống của mình,” ông Y Khim The chia sẻ.

Cán bộ xã đến từng hộ dân tuyên truyền, vận động, giải thích để người dân hiểu ý nghĩa của việc hiến đất mở đường. (Ảnh: Lê Hường)
Cán bộ xã đến từng hộ dân tuyên truyền, vận động, giải thích để người dân hiểu ý nghĩa của việc hiến đất mở đường. (Ảnh: Lê Hường)

Trước đây, người dân ở buôn Cuôr Tak phải di chuyển trên con đường đất, gặp nhiều khó khăn, đặc biệt là vào mùa mưa và mùa khô. Khi biết được rằng gia đình ông có đất nằm trong diện thu hồi để giải phóng mặt bằng cho dự án đường, ông đã đồng tình và hiến đất. Sự quyết tâm và đồng thuận của ông Y Khim The đã thể hiện tinh thần trách nhiệm và ý thức vì cộng đồng.

Buôn Cuôr Tak, với hơn 400 hộ dân, chủ yếu là người dân tộc Mnông, đã thể hiện sự đoàn kết và đồng thuận cao khi hầu hết các hộ dân đã chấp nhận hiến đất để mở đường. Ông Y Dhăm Sruk, Phó trưởng buôn Cuôr Tak, cho biết rằng người dân ở đây sống chủ yếu dựa vào nông nghiệp, và đất đai là tài sản cũng như tư liệu sản xuất quan trọng. Tuy nhiên, với chủ trương mở đường, đa số người dân đã sẵn sàng hiến đất để góp phần xây dựng cơ sở hạ tầng cho địa phương.

Dự án đường ven hồ Lắk có tổng chiều dài hơn 3,5km và liên quan đến 22 hộ dân của buôn Cuôr Tak. Sau quá trình tuyên truyền và vận động, gần như tất cả các hộ dân đã đồng tình và ủng hộ dự án. Sự đồng thuận này không chỉ thể hiện ở buôn Cuôr Tak mà còn lan tỏa trong cộng đồng dân tộc Mnông tại xã Liên Sơn.

Chị H’Bé Kuan, một cư dân của buôn Bhôk, cũng là một trong những người đã tự nguyện hiến đất. Chị đã nhường khoảng một sào đất để trồng lúa, hoa màu và cây lâu năm để làm đường. Chị H’Bé nói rằng mặc dù đất canh tác rất quan trọng với gia đình mình, nhưng để có đường cho cả buôn và cả xã cùng được hưởng lợi, chị sẵn lòng hy sinh một phần đất canh tác vì lợi ích chung.

Dự án đường giao thông ven hồ Lắk được UBND huyện Lắk phê duyệt tại Quyết định số 1391/QĐ-UBND ngày 22/4/2024. Đường giao thông này không chỉ phục vụ việc đi lại và sản xuất của người dân mà còn đóng vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy quá trình xây dựng nông thôn mới tại địa phương.

Khi hoàn thành, dự án này sẽ tạo điều kiện thuận lợi để phát triển du lịch cộng đồng tại các làng nghề truyền thống của người Mnông ven hồ Lắk. Các nghề thủ công truyền thống như làm gốm, dệt thổ cẩm, đan lát sẽ có cơ hội được giới thiệu đến với du khách, từ đó tạo ra động lực phát triển du lịch, chuyển dịch cơ cấu ngành nghề, tạo việc làm và tăng nguồn thu nhập cho người dân địa phương, góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế – xã hội.

]]>